Kính gửi Quý Khách hàng,
Trong bối cảnh quan hệ lao động tại Việt Nam ngày càng đa dạng, việc thiết lập cơ chế đối thoại và thương lượng tập thể trở thành công cụ quan trọng để dung hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đây không chỉ là nền tảng xây dựng môi trường làm việc hài hòa, ổn định mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Hoạt động thương lượng tập thể hiện nay được điều chỉnh trực tiếp bởi Bộ luật Lao động 2019 (“Bộ luật Lao động”), với các quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các bên, trình tự và thủ tục tiến hành. Việc nắm rõ và tuân thủ các quy định này là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp và tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở thực hiện thương lượng một cách hợp pháp, hiệu quả.
Bài viết này được xây dựng nhằm cung cấp cho Quý Khách hàng và tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có cái nhìn toàn diện về khung pháp lý và quy trình thương lượng tập thể, từ đó hỗ trợ việc triển khai thực tiễn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.
1. Cơ sở pháp lý về thương lượng tập thể
a. Khái niệm và nguyên tắc thương lượng tập thể
Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Lao động, thương lượng tập thể là việc đàm phán, thỏa thuận giữa một bên là một hoặc nhiều tổ chức đại diện người lao động[1] với một bên là một hoặc nhiều người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Mục tiêu của quá trình này là nhằm xác lập điều kiện lao động, quy định về mối quan hệ giữa các bên, đồng thời xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Từ khái niệm trên có thể thấy, thương lượng tập thể không chỉ là một thủ tục pháp lý mà còn là cơ chế đối thoại xã hội quan trọng. Quá trình này phải được tiến hành trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng gồm: tự nguyện, hợp tác, thiện chí, bình đẳng, công khai và minh bạch. Đây là những nguyên tắc bảo đảm cho thương lượng diễn ra công bằng, hiệu quả và phản ánh đúng tinh thần của pháp luật lao động hiện hành.
b. Đối tượng có quyền yêu cầu tổ chức thương lượng tập thể
Để làm rõ hơn, Bộ luật Lao động cũng quy định cụ thể về đối tượng có quyền yêu cầu tổ chức thương lượng tập thể tại doanh nghiệp như sau:
- Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền yêu cầu thương lượng tập thể khi đạt tỷ lệ thành viên tối thiểu trên tổng số người lao động trong doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ[2].
Trường hợp doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở cùng đáp ứng tỷ lệ thành viên tối thiểu này thì tổ chức có quyền yêu cầu thương lượng là tổ chức có số thành viên nhiều nhất trong doanh nghiệp. Các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở khác có thể tham gia thương lượng tập thể khi được tổ chức đại diện người lao động có quyền yêu cầu thương lượng tập thể đồng ý.
Trường hợp doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà không có tổ chức nào đáp ứng tỷ lệ thành viên tối thiểu này thì các tổ chức có quyền tự nguyện kết hợp với nhau để yêu cầu thương lượng tập thể nhưng tổng số thành viên của các tổ chức này phải đạt tỷ lệ tối thiểu theo quy định.
- Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền yêu cầu tổ chức thương lượng tập thể trong doanh nghiệp theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Lao động hoặc theo yêu cầu của người sử dụng lao động[3].
Người sử dụng lao động có trách nhiệm bố trí thời gian, địa điểm và các điều kiện cần thiết để tổ chức các phiên họp thương lượng tập thể.
Lưu ý: Khi có yêu cầu thương lượng tập thể của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở hoặc yêu cầu của người sử dụng lao động, bên nhận được yêu cầu không được từ chối việc thương lượng[4].
2. Nội dung và đại diện thương lượng tập thể tại doanh nghiệp
Căn cứ Điều 67 Bộ luật Lao động, các bên thương lượng lựa chọn một hoặc một số nội dung sau để tiến hành thương lượng tập thể. Những nội dung này phản ánh trực tiếp quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động cũng như trách nhiệm của người sử dụng lao động, bao gồm:
- Tiền lương, trợ cấp, nâng lương, thưởng, bữa ăn và các chế độ khác;
- Mức lao động và thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, làm thêm giờ, nghỉ giữa ca;
- Bảo đảm việc làm đối với người lao động;
- Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động; thực hiện nội quy lao động;
- Điều kiện, phương tiện hoạt động của tổ chức đại diện người lao động; mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và tổ chức đại diện người lao động;
- Cơ chế, phương thức phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao động;
- Bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ thai sản, nghỉ hằng năm; phòng, chống bạo lực và quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
- Nội dung khác mà một hoặc các bên quan tâm.
Có thể thấy, phạm vi nội dung thương lượng tập thể được quy định khá rộng, không chỉ dừng lại ở vấn đề tiền lương và phúc lợi mà còn bao quát cả các yếu tố liên quan đến môi trường làm việc, an toàn lao động, bình đẳng giới và cơ chế giải quyết tranh chấp. Điều này cho thấy pháp luật đã tạo hành lang để các bên có thể thảo luận toàn diện về những vấn đề thiết yếu trong quan hệ lao động.
Song song với việc xác định nội dung, vấn đề đại diện thương lượng cũng được quy định rõ tại Điều 69 Bộ luật Lao động và được điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp. Cụ thể:
- Số lượng người tham gia thương lượng tập thể của mỗi bên do các bên thỏa thuận.
- Thành phần tham gia thương lượng tập thể của mỗi bên do bên đó quyết định.
Trường hợp bên người lao động có nhiều tổ chức đại diện tham gia thương lượng tập thể mà đạt tỷ lệ thành viên tối thiểu trên tổng số người lao động trong doanh nghiệp, tổ chức đại diện có quyền yêu cầu thương lượng quyết định số lượng đại diện của mỗi tổ chức tham gia thương lượng.
Trường hợp bên người lao động có nhiều tổ chức đại diện tham gia thương lượng tập thể mà không có tổ chức nào đáp ứng tỷ lệ thành viên tối thiểu trên tổng số người lao động trong doanh nghiệp, số lượng đại diện của mỗi tổ chức do các tổ chức đó thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì từng tổ chức xác định số lượng đại diện tham gia tương ứng theo số lượng thành viên của tổ chức mình trên tổng số thành viên của các tổ chức.
- Mỗi bên thương lượng tập thể có quyền mời tổ chức đại diện cấp trên của mình cử người tham gia là đại diện thương lượng và bên kia không được từ chối. Đại diện thương lượng tập thể của mỗi bên không được vượt quá số lượng quy định tại khoản a nêu trên, trừ trường hợp được bên kia đồng ý.
3. Quy trình tổ chức thương lượng tập thể trong doanh nghiệp
Để bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả, Điều 70 Bộ luật Lao động quy định quy trình tổ chức thương lượng tập thể trong doanh nghiệp được tiến hành qua ba giai đoạn chính: đề xuất yêu cầu, chuẩn bị thương lượng và tiến hành thương lượng.
a. Đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể
Trước hết, khi có yêu cầu thương lượng, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu và nội dung thương lượng, các bên phải thỏa thuận về địa điểm và thời gian bắt đầu thương lượng. Trong trường hợp một bên không thể tham gia phiên họp đúng thời điểm đã thỏa thuận, họ có quyền đề nghị hoãn, nhưng thời điểm bắt đầu thương lượng không được vượt quá 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Nếu một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng đúng thời hạn, bên kia có quyền khởi động các thủ tục yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật. Đây là cơ chế bảo đảm rằng yêu cầu thương lượng không bị trì hoãn hoặc vô hiệu hóa bởi sự thiếu thiện chí từ một bên.
b. Chuẩn bị thương lượng tập thể
Để thương lượng đạt kết quả, các bên cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu có yêu cầu từ phía tổ chức đại diện người lao động, trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh và nội dung khác liên quan trực tiếp đến nội dung thương lượng trong phạm vi doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương lượng tập thể, trừ thông tin về bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ của người sử dụng lao động.
Đồng thời, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền tổ chức thảo luận, lấy ý kiến người lao động về nội dung, cách thức tiến hành và kết quả thương lượng. Việc thảo luận này phải được tổ chức hợp lý, không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.
Đặc biệt, chậm nhất 05 ngày làm việc trước khi bắt đầu phiên họp thương lượng tập thể, bên đề xuất yêu cầu thương lượng tập thể phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết về những nội dung dự kiến sẽ tiến hành trong phiên họp. Đây là bước quan trọng nhằm bảo đảm sự chuẩn bị đầy đủ và minh bạch cho cả hai bên.
c. Tiến hành thương lượng tập thể
Sau khi hoàn tất giai đoạn chuẩn bị, các bên bước vào phiên họp thương lượng tập thể. Theo quy định, thời gian thương lượng không được vượt quá 90 ngày kể từ ngày bắt đầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Phiên họp này do người sử dụng lao động chịu trách nhiệm tổ chức, trên cơ sở thời gian và địa điểm đã được hai bên thống nhất.
Trong quá trình thương lượng, việc lập biên bản là bắt buộc. Biên bản phải ghi rõ những nội dung đã được hai bên thống nhất, thời gian dự kiến ký kết các nội dung đã đạt thỏa thuận, cũng như những vấn đề còn ý kiến khác nhau. Biên bản phải có chữ ký của đại diện tập thể lao động, của người sử dụng lao động và của người ghi biên bản, nhằm bảo đảm tính pháp lý và minh bạch.
Trong thời gian 15 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp, đại diện thương lượng của bên tập thể lao động phải phổ biến rộng rãi, công khai biên bản phiên họp thương lượng tập thể cho tập thể lao động biết và lấy ý kiến biểu quyết của tập thể lao động về các nội dung đã thoả thuận.
Trường hợp thương lượng không thành, một trong hai bên có quyền tiếp tục đề nghị thương lượng hoặc tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của Bộ luật Lao động.
4. Thương lượng tập thể không thành
Thực tiễn cho thấy, không phải mọi quá trình thương lượng đều đạt kết quả. Căn cứ Điều 71 Bộ luật Lao động 2019, thương lượng tập thể được coi là không thành khi xảy ra một trong các trường hợp sau:
a. Một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn quy định tại điểm a Mục 3 nêu trên.
b. Đã hết thời hạn thương lượng tập thể trong vòng 90 ngày kể từ ngày bắt đầu thương lượng mà các bên không đạt được thỏa thuận.
c. Chưa hết thời hạn thương lượng tập thể trong vòng 90 ngày kể từ ngày bắt đầu thương lượng nhưng các bên cùng xác định và tuyên bố về việc thương lượng tập thể không đạt được thỏa thuận.
Trong những trường hợp này, các bên phải chuyển sang thủ tục giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật. Đáng lưu ý, trong thời gian tranh chấp đang được giải quyết, tổ chức đại diện người lao động không được tổ chức đình công, nhằm tránh gây xáo trộn lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
5. Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia
Ngoài phạm vi doanh nghiệp, Bộ luật Lao động còn mở rộng cơ chế thương lượng tập thể ở cấp ngành hoặc giữa nhiều doanh nghiệp. Nguyên tắc, nội dung được thực hiện theo nguyên tắc, nội dung thương lượng tập thể quy định chi tiết tại Mục 1 của bài viết này.
Quy trình tiến hành thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia do các bên thỏa thuận quyết định, bao gồm cả việc thỏa thuận tiến hành thương lượng tập thể thông qua Hội đồng thương lượng tập thể quy định Mục 6 của bài viết này. Trong đó:
a. Trường hợp thương lượng tập thể ngành thì đại diện thương lượng là tổ chức công đoàn ngành và tổ chức đại diện người sử dụng lao động cấp ngành quyết định.
b. Trường hợp thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thì đại diện thương lượng do các bên thương lượng quyết định trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận.
Việc mở rộng phạm vi thương lượng này giúp nâng cao hiệu quả điều chỉnh quan hệ lao động ở phạm vi rộng hơn, đặc biệt trong các ngành có tính chất tập trung lao động cao.
6. Thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thông qua Hội đồng thương lượng tập thể[5]
Trên cơ sở đồng thuận, các bên thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của các doanh nghiệp tham gia thương lượng hoặc nơi do các bên lựa chọn trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia thương lượng có trụ sở chính tại nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Hội đồng thương lượng tập thể để tiến hành thương lượng tập thể. Thành phần Hội đồng thương lượng tập thể bao gồm:
a. Chủ tịch Hội đồng do các bên quyết định và có trách nhiệm điều phối hoạt động của Hội đồng thương lượng tập thể, hỗ trợ cho việc thương lượng tập thể của các bên;
b. Đại diện các bên thương lượng tập thể do mỗi bên cử. Số lượng đại diện mỗi bên thương lượng tham gia Hội đồng do các bên thỏa thuận;
c. Đại diện Ủy ban nhân dân cấp tỉnh[6].
Hội đồng thương lượng tập thể tiến hành thương lượng theo yêu cầu của các bên và tự chấm dứt hoạt động khi thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia được ký kết hoặc theo thỏa thuận chung. Đây là cơ chế quan trọng giúp nâng cao hiệu quả thương lượng ở phạm vi nhiều doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm sự tham gia công bằng và minh bạch của tất cả các bên liên quan.
Best regards,
ENT Law LLC
[1] Khoản 3 Điều 3 Bộ luật Lao động, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
[2] Điều 68 Bộ luật Lao động
[3] Khoản 1 Điều 70 Bộ luật Lao động
[4] Khoản 1 Điều 70 Bộ luật Lao động
[5] Các nội dung chi tiết liên quan đến thủ tục thành lập, chức năng, nhiệm vụ, cách hoạt động của Hội đồng thương lượng tập thể được quy định chi tiết trong Chương III Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về nội dung của Hợp đồng lao động, Hội đồng thương lượng tập thể và nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản, nuôi con.
[6] Căn cứ Điều 74 Bộ luật Lao động, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quan trọng trong việc hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động thương lượng tập thể, cụ thể:
(i) Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể cho các bên tham gia thương lượng tập thể.
(ii) Xây dựng và cung cấp các thông tin, dữ liệu về kinh tế – xã hội, thị trường lao động, quan hệ lao động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy thương lượng tập thể.
(iii) Chủ động hoặc khi có yêu cầu của cả hai bên thương lượng tập thể, hỗ trợ các bên đạt được thỏa thuận trong quá trình thương lượng tập thể; trường hợp không có yêu cầu, việc chủ động hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ được tiến hành nếu được các bên đồng ý.
Thành lập Hội đồng thương lượng tập thể khi có yêu cầu của các bên thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp.
English


Bản tin pháp lý số tháng 08/2025 – Những điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024
Kính gửi Quý khách hàng, Ngày 29/06/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số...
Th8
Bản tin pháp lý số tháng 06/2025- NGHỊ ĐỊNH SỐ 69/2024/NĐ-CP QUY ĐỊNH VỀ ĐỊNH DANH VÀ XÁC THỰC ĐIỆN TỬ
Kính gửi Quý Khách hàng, Ngày 25/6/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2024/NĐ-CP (“Nghị định...
Th6
Số 030922 – Thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hình thức thực hiện hợp đồng lao động
Kính gửi Quý khách hàng, Với nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ngày một tăng, ngày...
Th9
BẢN TIN PHÁP LÝ SỐ THÁNG 07/2022 – LƯƠNG TỐI THIỂU THEO VÙNG TỪ THÁNG 7/2022
Kính gửi Quý khách hàng, Ngày 12/6/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 38/2022/NĐ-CP (“NĐ 38”) quy định...
Th7