Số 010222 – Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động theo Bộ luật Lao động 2019

Kính gửi Quý khách hàng,

Theo quy định của Bộ luật Lao động 2019 (“BLLĐ”), trạnh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Khác với các tranh chấp khác, tranh chấp lao động được giải quyết theo những cơ chế đặc thù theo quy định pháp luật lao động. ENT xin gửi tới Quý khách hàng hướng dẫn chi tiết về cơ chế giải quyết tranh chấp lao động theo Bộ luật Lao động 2019 qua bài viết dưới đây.

Các loại tranh chấp lao động

Theo quy định của BLLĐ, có hai loại tranh chấp lao động: (1) Tranh chấp lao động cá nhân, (2) Tranh chấp lao động tập thể[1].

Theo đó, tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa người lao động với người sử dụng lao động; giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại[2].

Tranh chấp lao động tập thể bao gồm tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích[3].

Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động phát sinh khi[4]:

    • Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác; hoặc
    • Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của pháp luật về lao động; hoặc
    • Khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động vì lý do thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động; can thiệp, thao túng tổ chức đại diện người lao động; vi phạm nghĩa vụ về thương lượng thiện chí.

Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể hoặc khi một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn theo quy định của pháp luật[5].

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động

Việc giải quyết tranh chấp lao động cần tuân theo các nguyên tắc sau đây[6]:

    • Tôn trọng quyền tự định đoạt thông qua thương lượng của các bên trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp lao động;
    • Coi trọng giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật;
    • Công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật;
    • Bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động;
    • Việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi có yêu cầu của bên tranh chấp hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được các bên tranh chấp đồng ý.

Cơ chế giải quyết tranh chấp lao động

Tranh chấp lao động có thể được giải quyết theo các phương thức: thương lượng, thông qua hòa giải viên lao động, trước Hội đồng trọng tài lao động, và tại Tòa án có thẩm quyền.

a) Thương lượng:

Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên thực hiện đối thoại trực tiếp với nhau nhằm đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và có thể được áp dụng đối với bất kỳ loại tranh chấp lao động nào.

Trong thực tế, thương lượng thường là phương thức giải quyết tranh chấp lao động được các bên nghĩ đến đầu tiên bởi tính đơn giản, nhanh chóng về quy trình, thủ tục; tính tiết kiệm chi phí và thời gian. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng đòi hỏi thiện chí các bên trong quan hệ lao động trong việc tháo gỡ tranh chấp để có thể đi đến kết quả.

b) Hòa giải viên lao động:

Giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải viên lao động là phương thức được áp dụng cho tất cả các loại tranh chấp lao động. Việc giải quyết tranh chấp lao động bằng hình thức hòa giải sẽ được coi là bắt buộc trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án giải quyết, trừ các trường hợp tranh chấp lao động cá nhân không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải, bao gồm các tranh chấp[7]:

    • Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
    • Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
    • Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
    • Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
    • Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
    • Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.
    • Quy trình, thủ tục thực hiện hòa giải tranh chấp lao động được thực hiện như sau[8]:
    • Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hòa giải viên lao động nhận được yêu cầu từ bên yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc từ cơ quan có thẩm quyền, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải.
    • Tại phiên họp hòa giải phải có mặt hai bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể ủy quyền cho người khác tham gia phiên họp hòa giải.
    • Hòa giải viên lao động có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ các bên thương lượng để giải quyết tranh chấp.
    • Trường hợp các bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải có chữ ký của các bên tranh chấp và hòa giải viên lao động.
    • Trường hợp các bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa ra phương án hòa giải để các bên xem xét. Trường hợp các bên chấp nhận phương án hòa giải thì hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành phải có chữ ký của các bên tranh chấp và hòa giải viên lao động.
    • Trường hợp phương án hòa giải không được chấp nhận hoặc có bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải không thành. Biên bản hòa giải không thành phải có chữ ký của bên tranh chấp có mặt và hòa giải viên lao động.
    • Bản sao biên bản hòa giải thành hoặc hòa giải không thành phải được gửi cho các bên tranh chấp trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày lập biên bản.
    • Trường hợp một trong các bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành thì bên kia có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.

Đối với các trường hợp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải nêu trên hoặc trường hợp hết thời hạn hòa giải quy định mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc trường hợp hòa giải không thành theo quy định tại khoản 4 Điều 188 BLLĐ thì các bên tranh chấp có quyền lựa chọn một trong các phương thức sau để giải quyết tranh chấp[9]:

    • Yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết; hoặc
    • Yêu cầu Tòa án giải quyết.

c) Trọng tài lao động:

Trọng tài lao động có thể được các bên trong quan hệ tranh chấp lao động lựa chọn để giải quyết tất cả các loại tranh chấp lao động. Trên cơ sở đồng thuận, các bên có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau[10]:

    • Trường hợp không bắt buộc phải trải qua thủ tục hòa giải (đối với tranh chấp lao động cá nhân);
    • Trường hợp hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên không tiến hành hòa giải;
    • Trường hợp hòa giải không thành;
    • Trường hợp một trong các bên không thực hiện thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành.

Đối với tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền, các bên không được đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết sau khi đã lựa chọn giải quyết thông qua Hội đồng trọng tài lao động, trừ ngoại lệ quy định tại khoản 4 Điều 189[11] và khoản 4, 5 Điều 193 BLLĐ[12]. Đặc biệt, đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền theo điểm b, c khoản 2 Điều 179 BLLĐ, nếu xác định có hành vi vi phạm pháp luật, Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết mà lập biên bản và chuyển hồ sơ, tài liệu đến cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật[13].

Đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, khi các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua Hội đồng trọng tài lao động thì tổ chức đại diện người lao động không được tiến hành đình công trong thời gian Hội đồng trọng tài đang tiến hành giải quyết tranh chấp[14].

Tòa án có thẩm quyền:

Tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền. Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động trong các trường hợp dưới đây[15]:

    • Trường hợp không bắt buộc phải trải qua thủ tục hòa giải (đối với tranh chấp lao động cá nhân;
    • Trường hợp hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên không tiến hành hòa giải;
    • Trường hợp hòa giải không thành;
    • Trường hợp một trong các bên không thực hiện thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành;
    • Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 189[16] và khoản 4, 5 Điều 193 BLLĐ;
    • Trường hợp một trong các bên không thi hành quyết định của Ban trọng tài lao động.

Theo quy định tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015[17] (“BLTTDS”), Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động nêu trên.

Thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án được thực hiện theo quy định tại Điều 39, 40 BLTTDS.

Như thường lệ, chúng tôi hy vọng Quý khách hàng thấy bài viết này hữu ích và mong muốn được làm việc với Quý khách hàng trong thời gian tới.

Trân trọng,

Công ty Luật TNHH ENT

Quý khách hàng có thể tìm đọc bản đầy đủ của Hướng dẫn pháp lý này tại đây.

——————————–

[1] Theo Điều 179 BLLĐ.

[2] Theo điểm a khoản 1 Điều 179 BLLĐ.

[3] Theo điểm b khoản 1 Điều 179 BLLĐ.

[4] Theo khoản 2 Điều 179 BLLĐ.

[5] Theo khoản 3 Điều 179 BLLĐ.

[6] Theo Điều 180 BLLĐ.

[7] Theo Điều 188.1 BLLĐ.

[8] Theo Điều 188.2, 188.3, 188.4, 188.5, 188.6 BLLĐ.

[9] Theo Điều 188.7 BLLĐ.

[10] Theo Điều 189.1 , Điều 193.1 , Điều 197.1 BLLĐ.

[11] Theo Điều 189.4 BLLĐ:Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn quy định tại khoản 3 Điều này mà Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

[12] Theo Điều 193.4, 193.5 BLLĐ:

“4. Trường hợp các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua Hội đồng trọng tài lao động theo quy định tại Điều này thì trong thời gian Hội đồng trọng tài lao động đang tiến hành giải quyết tranh chấp, các bên không được đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết

5. Khi hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn quy định tại khoản 3 Điều này mà Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.

[13] Theo khoản 3 Điều 193 BLLĐ.

[14] Theo khoản 4 Điều 197 BLLĐ.

[15] Theo Điều 188.1, Điều 189.4, Điều 190, Điều 193.4, Điều 193.5 BLLĐ.

[16] Theo Điều 189.4 BLLĐ: Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn quy định tại khoản 3 Điều này mà Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”.

[17] Theo Điều 35.1(c) BLTTDS: “Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây: Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này”.

This site uses cookies to offer you a better browsing experience. By browsing this website, you agree to our use of cookies.