Bản tin pháp lý số tháng 9 năm 2023 – Những điểm mới trong quy định về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam

Kính gửi Quý khách hàng,

Ngày 18/09/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 70/2023/NĐ-CP (“Nghị định 70”) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2020/NĐ-CP ngày 30/12/2020 của Chính phủ quy định về người lao động nước ngoài (“NLĐNN”) làm việc tại Việt Nam và tuyển dụng, quản lý người lao động (“NLĐ”) Việt Nam làm việc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam (“Nghị định 152”). Nghị định 70 chính thức có hiệu lực kể từ ngày ký.

Trong Bản tin pháp lý số này, những điểm mới đáng chú ý của Nghị định 70 sẽ được chúng tôi tổng hợp và làm rõ.

1. Thay đổi thời hạn xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN

Theo quy định tại Điều 4.1(a) Nghị định 152 được sửa đổi bổ sung bởi Điều 1.2 Nghị định 70, đối với việc xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN, trước ít nhất 15 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng NLĐNN, người sử dụng lao động (“NSDLĐ”) (trừ nhà thầu) có trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN đối với từng vị trí công việc mà NLĐ Việt Nam chưa đáp ứng được và báo cáo giải trình với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi NLĐNN dự kiến làm việc theo Mẫu số 01/PLI Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này.

Trong quá trình thực hiện nếu thay đổi nhu cầu sử dụng NLĐNN về vị trí, chức danh công việc, hình thức làm việc, số lượng, địa điểm thì NSDLĐ phải báo cáo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội theo Mẫu số 02/PLI Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 70 trước ít nhất 15 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng NLĐNN.

Như vậy, có thể thấy rằng Nghị định 70 đã có sự rút ngắn về mặt thời gian từ 30 ngày xuống còn 15 ngày đối với việc xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN so với Nghị định 152.

2. Các trường hợp NSDLĐ không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN 

Bên cạnh sự thay đổi về mặt thời gian trong việc xác định nhu cầu sử dụng NLĐ, Nghị định 70 còn bổ sung thêm các trường hợp không phải thực hiện xin xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN. Trước đây, theo quy định tại Điều 4.1(b) Nghị định 152, có tất cả 11 trường hợp NSDLĐ không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN tại Việt Nam. Bao gồm trường hợp NLĐNN quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 154 của Bộ luật Lao động 2019 và các khoản 1, 2, 8, 9, 10, 11, 12 và 13 Điều 7 Nghị định 152.

Tuy nhiên, kể từ ngày 18/09/2023, Nghị định 70 đã bổ sung thêm 6 trường hợp NSDLĐ không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN. Cụ thể như sau: “Trường hợp NLĐNN quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6 và 8 Điều 154 của Bộ luật Lao động và các khoản 1, 2, 4, 5, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 Điều 7 Nghị định này thì NSDLĐ không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN”.

Theo đó, Nghị định 70 đã bổ sung thêm 2 trường hợp tại Điều 154 của Bộ luật Lao động 2019. Đó là các trường hợp: (i) Là luật sư nước ngoài đã được cấp Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy định của Luật Luật sư; và (ii) Người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.

Đồng thời, Nghị định 70 cũng đã bổ sung thêm 04 trường hợp tại Điều 7 Nghị định 152 được sửa đổi bổ sung bởi Điều 1.4 Nghị định 70. Cụ thể là các trường hợp sau:

  • Vào Việt Nam để cung cấp dịch vụ tư vấn về chuyên môn và kỹ thuật hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng, thẩm định, theo dõi đánh giá, quản lý và thực hiện chương trình, dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo quy định hay thỏa thuận trong các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước ngoài.
  • Được Bộ Ngoại giao cấp giấy phép hoạt động thông tin, báo chí tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
  • Tình nguyện viên làm việc tại Việt Nam theo hình thức tự nguyện và không hưởng lương để thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và có xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
  • Được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác nhận NLĐNN vào Việt Nam để thực hiện các công việc sau: (i) Giảng dạy, nghiên cứu; và (ii) Làm nhà quản lý, giám đốc điều hành, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cơ sở giáo dục do cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài hoặc tổ chức liên chính phủ đề nghị thành lập tại Việt Nam.

Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại có 17 trường hợp NSDLĐ không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN tại Việt Nam.

3. Thay đổi cơ quan cấp văn bản chấp thuận về việc sử dụng NLĐNN

Trước đây, theo quy định tại Điều 4.2 Nghị định 152, thẩm quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận về việc sử dụng NLĐNN thuộc về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Tại Nghị định 70, thẩm quyền chấp thuận về việc sử dụng NLĐNN có sự thay đổi. Cụ thể, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội có văn bản chấp thuận hoặc không chấp thuận về việc sử dụng NLĐNN đối với từng vị trí công việc theo Mẫu số 03/PLI Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 70 trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo giải trình hoặc báo cáo giải trình thay đổi nhu cầu sử dụng NLĐNN.[1]

4. Thông báo tuyển dụng NLĐ Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng NLĐNN trên Cổng thông tin điện tử

Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2024, việc thông báo tuyển dụng NLĐ Việt Nam vào các vị trí dự kiến tuyển dụng NLĐNN được thực hiện trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Cục Việc làm) hoặc Cổng thông tin điện tử của Trung tâm dịch vụ việc làm do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập trong thời gian ít nhất 15 ngày kể từ ngày dự kiến báo cáo giải trình với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi NLĐNN dự kiến làm việc.[2]

Nội dung thông báo tuyển dụng bao gồm vị trí và chức danh công việc, mô tả công việc, số lượng, yêu cầu về trình độ, kinh nghiệm, mức lương, thời gian và địa điểm làm việc. Sau khi không tuyển được NLĐ Việt Nam vào các vị trí tuyển dụng NLĐNN, NSDLĐ có trách nhiệm xác định nhu cầu sử dụng NLĐNN theo quy định.

Trường hợp NLĐNN làm việc cho một NSDLĐ tại nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày NLĐNN bắt đầu làm việc, NSDLĐ phải báo cáo qua môi trường điện tử về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi NLĐNN đến làm việc theo Mẫu số 17/PLI Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 70.

5. Thống nhất lại đầu mối cấp giấy phép lao động cho NLĐNN

Theo Nghị định 70, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về tuyển dụng, quản lý lao động nước ngoài trên cả nước, cũng như quản lý người Việt làm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.[3]

Đồng thời, Nghị định này cũng đã bãi bỏ quy định, cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và xác nhận NLĐNN không thuộc diện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc trong khu công nghiệp, khu kinh tế tại của Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.[4]

Như vậy, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ thống nhất quản lý lao động nước ngoài trên địa bàn theo đề xuất của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội trước đó.

Có thể thấy rằng, việc thống nhất lại đầu mối cấp giấy phép lao động này về lâu dài sẽ đảm bảo việc thống nhất quản lý nhà nước về tuyển dụng, quản lý NLĐNN việc tại Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Đồng thời, khắc phục được những bất cập về việc thực hiện cấp giấy phép lao động cho đơn vị không phải cơ quan chuyên môn là Ban quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.

Như thường lệ, chúng tôi hi vọng Quý khách hàng thấy bài viết này hữu ích và mong muốn được làm việc với Quý khách hàng trong thời gian tới.

Công ty Luật TNHH ENT

Quý khách hàng có thể tìm đọc bản đầy đủ của Bản tin pháp lý này tại đây.

———————————————————-

[1] Điều 1.2 Nghị định 70.

[2] Điều 1.2 Nghị định 70.

[3] Điều 1.11(a) Nghị định 70.

[4] Điều 2.1 Nghị định 70.

This site uses cookies to offer you a better browsing experience. By browsing this website, you agree to our use of cookies.